Những giai thoại thú vị về nhà thơ Nguyễn Bính

Nguyễn Bính (1918 – 1966) là nhà thơ của tình yêu trắc trở. Và điều ấy được phổ vào những thể điệu cổ truyền của thơ ca dân tộc nên càng dễ đi vào lòng người đọc. Thời kỳ “Thơ mới” (1932 – 1945) trong khi các nhà thơ khác tìm tòi khai thác cái hồn, cái dáng tân kỳ của thơ hiện đại Pháp thì Nguyễn Bính vẫn mơ mộng, say mê với hồn quê, cảnh quê mộc mạc, chất phác, với cách ví von so sánh ý nhị, duyên dáng, với thể thơ 5 chữ, 7 chữ và lục bát quen thuộc.

Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vốn là nhà thơ của tình quê, chân quê và hồn quê. Nói như Tô Hoài: “Tinh hoa và tài năng con người nảy nở vào một khi nhất định, thời kỳ sức lực nhất – có thể chỉ nổi lên ở một bài thơ, thậm chí ở một câu thơ. Một văn tài lỗi lạc đến mấy cũng không thể cả đời lúc nào cũng lung linh hào quang những sáng tạo tầm cỡ. Sức mạnh sáng tạo cũng ví như sức khỏe con người, không phải và không thể lúc nào cũng sung sức nhất được”.

Sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Bính trải dài theo số phận của cuộc đời ông với những thành tựu quý: Thơ trữ tình, truyện thơ, thơ dịch, kịch thơ,… Song, có lẽ di sản quý báu của Nguyễn Bính để lại, thơ là thể loại ông dành nhiều tâm huyết nhất, dồn nhiều tinh lực nhất và cũng là nơi ông gặt hái nhiều thành công rực rỡ nhất.

Phần giới thiệu bên trên và những giai thoại bên dưới được trích trong cuốn “Thơ tình Nguyễn Bính” do Vũ Thanh Việt biên khảo.

Một thần đồng

Năm 1931, ở làng Thiện Vinh, Vụ Bản, Nam Định, người ta đồn ầm lên là có một thần đồng! Đó là một cậu bé 13 tuổi được giải nhất trong một cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng. Mà oái oăm, người thứ nhì lại là một lão bà ngoài 70 tuổi, đầu tóc bạc phơ. Cậu bé đó là Nguyễn Bính và cụ già là cụ Nguyễn Thị Chanh.

Chẳng là, từ mùng 6 đến mùng 8 tháng giêng ta cùng dịp hội phủ, làng tổ chức thi hát trống quân ở ngay sân đình, 1 bên nam 1 bên nữ. Cụ Chanh gà cho bên nữ, Bính gà cho bên nam. Hát đối đáp nhau, hỏi đố nhau suốt đêm, cuối cùng, bên nam thắng cuộc chính là nhờ những câu hỏi đáp rất hay của Bính.

Ngày nay, các anh chị hồi ấy (bây giờ là các cụ cả rồi) còn nhớ mấy câu sau đây:

“Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người?
Chưa chồng mấy ả, em thời biết không?
Đố ai đi khắp Tây Đông,
Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say,
Như giăng mới mọc, như cây mới trồng?
Làm sao như vợ như chồng?
Làm sao cho thỏa má hồng răng đen?
Làm sao cho tỏ hơn đèn?
Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời?
Làm sao? Anh khen em tài?
Làm sao? Em đáp một lời, làm sao…?”

Câu đố mà lại như câu hát, thật trữ tình, thật thơ mộng, và thật khó trả lời, làm bên nữ chỉ mải cười rúc rích, đấm nhau thùm thụp, và rồi… sau 5 phút 10 phút, sau 3 hồi trống dài, bên nữ không đáp được! Thế là các già làng chấm bên nam thắng. Bọn con trai sung sướng hò vang, kiệu Nguyễn Bính lên vai đi khắp vòng đình.

Có lẽ những ngày thơ ấu, những câu hát đồng quê ấy đã tạo nên cái chất Nguyễn Bính, nhà thơ “chân quê” của chúng ta sau này.

(Theo cụ P., và cụ N. ở quê Nguyễn Bính)

Thơ tiên

Năm ấy Nguyễn Bính mới khoảng 13, 14 tuổi. Tuy người thấp, nhỏ nhưng thơ thì đã nổi tiếng khắp vùng. Có những anh trai làng ít chữ song lại muốn “ra vẻ ta đây con nhà thơ phú” mượn dăm ba câu để tán tỉnh các cô gái quê nên tìm đến nhờ vả “cậu” Bính nghĩ cho một bức “tình thư”.

“Cậu” Bính không từ chối một ai cả vì cậu nghĩ rằng mình thay ông tơ bà nguyệt chắp nối duyên lành cho đôi lứa cũng là một cách làm phúc không kém gì xây chín bậc phù đồ. Chơi chơi vậy mà có một đám nhà gái được một gia đình giàu có xứ khác đến dạm hỏi trong lúc con gái nhà họ lại yêu một anh trai làng nghèo hơn, mới tìm đến xin “cậu” cầu “tiên” cho một quẻ thơ. “Cậu” sai bày cỗ hương hoa, có cả đồng tiền bát gạo để cậu khấn các đấng thần linh xin giáng bút. Và một vài “thơ tiên” được “cậu” đọc cho nhà gái nọ nghe như sau:

“Nay tiên góp ý cho nàng
Việc trăm năm chọn anh chàng nào đây?
Em ơi!
Của dẫu nhiều nhưng vẫn chẳng nên
Phù vân, giả dối, chẳng lâu bền
Tình em đâu phải trao thiên hạ
Dành để trai làng mới đẹp duyên!”

“Tiên” đã phán truyền như vậy thì còn ai dám cãi lời. Thế là một bài thơ “cậu” Bính mà chị nọ được nên duyên cầm sắt.

Lần khác, có một bà cụ già, không muốn để các con phải nuôi, mới ra mở một hàng nước. Nhưng hàng họ ế ẩm khiến cụ chán ngán muốn bỏ nghề, mới đến xin “cậu” Bính cầu “tiên” cho một quẻ thơ. “Cậu” cầu được ngay một bài khiến con cháu cụ từ đó không dám để cụ phải bôn tẩu vất vả nữa. Thơ rằng:

“Cửa hàng được mấy đồng tiền
Thôi thì chợ búa chùa chiền cho vui
Năm nay bảy chục tuổi rồi
Các con gom góp mà nuôi mẹ hiền!”

Song thú vị nhất là bài thơ “thơ tiên” của “cậu” Bính đã giác ngộ được một anh đạo chích đang không biết có nên tiếp tục làm nghề đào tường khoét gạch nữa hay bỏ nghề:

“Từ nay anh chớ có đi đêm
Dù thấy đi đêm được lắm tiền
Nhưng có phen rồi mang lấy vạ
Ở tù khổ vợ, khổ con thêm!”

Những bài “thơ tiên” của một cậu bé 13, 14 tuổi tuy còn non nớt nhưng đã là dấu hiệu báo trước một tài năng thi ca trác việt. Tài năng đó chính là Nguyễn Bính, tác giả của “Lỡ bước sang ngang”, “Mây Tần”, “Mười hai bến nước” rất nổi tiếng sau này.

(Ghi theo lời kể của cô Thanh Hằng, cháu ruột nhà thơ)

Chọn tên cho con

Vào một đêm trăng sáng. Tôi có mang được vài tháng. Chúng tôi đem ghế ra sân ngồi ngắm cảnh trăng. Con kinh xáng Chắc – Băng Thái Bình, chảy ngang qua cửa nhà tôi, óng ánh như những làn sóng bạc nhấp nhô nhấp nhô. Sông nước hữu tình, trăng thanh gió mát, chúng tôi lại bàn về thơ, nói chuyện tào lao một lúc, bỗng anh Bính nói:

– Chả biết con của chúng ta sau này là trai hay gái, mà nó đạp kinh thế, có hôm bố nó đang ngủ phải giật mình.

Tôi đùa:

– Thế mà em tưởng là anh nằm mơ bị Tây đánh mới giật mình! Vậy đặt tên nó là gì cho hợp?

Anh liền nghiêm nét mặt, có dáng suy nghĩ. Tôi cũng im lặng. Vì mỗi lần anh có vẻ trầm tư, thì tôi lại tôn trọng giây phút suy nghĩ đó của anh.

Anh ngồi yên một hồi lâu mới khẽ khàng nói:

– Nếu sinh gái đầu lòng thì đặt tên nó là Anh Thơ nhé! Còn nếu là con trai thì ta lập thêm một dòng họ Nguyễn Bính Hồng…

Anh nói chưa dứt câu, tôi cảm thấy một nỗi niềm chua xót dâng trào trong tim tôi, tôi gắt:

– Tại sao con tôi mang nặng đẻ đau, mà anh lại lấy tên người khác đặt cho nó? Khi tôi lấy anh, tôi chấp nhận tất cả, tôi biết anh yêu nào cô Tuyên (em gái anh Nguyễn Đình Lạp mà Nguyễn Bính đặt tên là Tú Uyên), nào cô Oanh, cô Dung, cô Phùng… nhưng tôi chẳng hề ghen với cô nào cả. Thậm chí, đối với chị Anh Thơ, tôi cho rằng mối tình nghệ sĩ rất xứng đáng, thơ mộng! Câu chuyện tình dở dang ấy là điều đáng tiếc! Mặc dù tôi rất tôn trọng mối tình anh với chị Anh Thơ mà tôi cho là xứng đáng nhất, nên thơ nhất, nhưng tôi không chấp nhận lấy tên chị ấy mà đặt tên cho con tôi được! Đây là những lời nói tôi nói từ đáy tim mình, chứ không có hàm ý ghen tuông gì đâu! Chỉ xin anh hiểu cho rằng tôi làm mẹ, tôi có công mang nặng đẻ đau, thì tôi phải có quyền làm mẹ, không ai có thể phủ nhận được chân lý ấy!

Anh thấy tôi đã nổi nóng, và cũng tự thấy mình có cái sai, nên anh đấu dịu:

– Thôi nếu sau này nếu là con gái thì em muốn đặt tên gì thì đặt, còn con trai thì anh đặt cho nó là Nguyễn Bính Hồng Chân có được không?

– Sao lại là Hồng Chân? Tên gì y con gái vậy? Mẹ Hồng Châu, con Hồng Chân thì ra cái quái gì?

– Hồng Chân là Chân lý màu hồng! Anh muốn lấy tên cha mẹ đặt cho con! Để mai sau con chúng ta lớn lên, mỗi lần nó định làm gì sai trái, nó nhớ đến tên cha mẹ, mà nó tự răn mình không để ô nhục đến tên tuổi mẹ cha!

Nhưng kể từ đó về sau, anh đi đồn tiếu tùm lum rằng “vợ tôi rất ghen” mà đó cũng là một điều an ủi cho anh, vợ có yêu mình nên vợ mới ghen!…

Mãi đến khi tôi sanh được một tháng, tôi mới qua Ủy ban kháng chiến hành chánh xã, ở cạnh nhà thôi mà khai sanh cho con. Tôi đang nói tên cha, mẹ và tên con cho ông hộ tịch ghi ba chữ: Nguyễn Hồng Cầu.

Thì anh Bính bỗng chạy ùa vào hỏi hấp tấp:

– Vợ tôi đặt tên con nhỏ gì đấy ông Báu? (tên ông hộ tịch)

– Chị đặt Nguyễn Hồng Cầu, vì mẹ là Nguyễn Hồng Châu, lấy tên mẹ đặt cho con, cái tên nghe hay đấy!

Anh Bính bỗng xịu mặt nói:

– Ấy… ấy… ông thêm một chữ Bính nữa vào tên cháu!

Ngẩn ngơ, ông đại diện chính quyền xã, ngồi xoay xoay mãi cây viết có ngòi sắt trong tay, trố mắt nhìn anh hỏi:

– Thêm Bính vào đâu? Không lẽ Nguyễn Hồng Cầu Bính, hay Bính Nguyễn Hồng Cầu? Trời ơi! Con gái mà tên gì kỳ cục, dài thòn, lại là Bính nữa! Trời ơi!…

Rồi ông ném bút bò lăn ra cười. Mọi người có mặt nơi đó đều cười rộ lên. Nhưng anh Bính không cười, nét mặt lộ rõ giận dữ, lấy tay chỉ vào khai sinh, nơi chỗ ghi tên họ con nhỏ, sau chữ Nguyễn và nói:

– Ông thêm vào chỗ này: Nguyễn Bính Hồng Cầu! Có cha có mẹ mới có con! Không phải một mình mẹ nó mà đẻ ra nó! Mai sau khôn lớn, nó nhớ đến tên cha mẹ đã đặt cho nó, mà nó ăn ở cho nên người, đừng để cha mẹ vì nó mà xấu hổ! Nó là con cả của tôi đấy!

Tôi nhắc:

– Hôm trước anh hứa, tôi sanh con gái thì để tôi đặt tên cho nó, còn con trai mới thành lập một dòng họ Nguyễn Bính! Nay nó là gái tôi lấy tên tôi đặt cho nó là phải rồi.

Nhưng anh lại hét to:

– Không có tôi một mình cô hồi trước không đẻ đi? Chỉ thêm một chữ Bính vào, thì có chết ai nào? Con gái tôi là Nguyễn Bính – Hồng Cầu!

Rồi anh nhìn xoáy vào mắt tôi, giọng gắt gỏng như cố trút hết nỗi bực bội.

– Đây là đứa con đầu lòng của tôi, của người vợ đầu tiên danh chánh ngôn thuận, nên tôi mới lấy tên tôi mà đặt cho nó để kỷ niệm.

Nói xong, anh ngoe nguẩy bỏ đi! Tôi cũng bực vì chồng mắng một cách vô lý, nên cũng nói to:

– Ông làm ơn gạt bỏ chữ Hồng Cầu đi, để tên nó là Nguyễn Bính Trương Phi nghe cho đẹp hơn.

Ông hộ tịch buộc lòng phải cầm bút viết thêm một chữ Bính, trong tờ khai sinh cho đứa con gái đỏ hỏn của tôi. Miệng lại lầu bầu:

– Phải như nông dân thì trai văn, nữ thị, cho xong chuyện. Đằng này một cái tên con đặt nghe cũng rắc rối. Mẹ không cho để chữ thị, cha đặt tên con gái mà dài quá Tây. Cả đời tôi mới thấy lần thứ nhứt, cái tên: Nguyễn Bính Hồng Cầu!

(Hồng Châu, trích hồi ký về Nguyễn Bính)

Những người yêu thơ thiết thực

Hồi Nguyễn Bính theo ty Văn Hóa Nam Hà sơ tán về xã Nhân Nghĩa, nhân dân địa phương biết là nhà thơ Nguyễn Bính ở đây, nên hay đến tiếp xúc và lấy làm thú vị là được quen biết nhà thơ của quê hương.

Có ông B, là thợ cắt tóc, không bao giờ lấy tiền cắt tóc nhà thơ. Đáp lại, Nguyễn Bính thường cắt những bài thơ đăng báo của mình và cả những bài chưa đăng báo tặng ông. Ông B. dán ngay lên vách cửa hàng. Hiệu cắt tóc của ông B, từ đó rất đông khách, có lẽ một phần khách đến chỉ cốt mong được đọc thơ của Nguyễn Bính. Âu cũng là sự “có đi, có lại” một cách ngẫu nhiên.

Cô lái đò sông Châu là cô T. cũng vậy, không bao giờ lấy tiền đò thi sĩ. Có lần Nguyễn Bính hỏi cô đã đọc bài thơ “Cô lái đò” của ông chưa. Cô nói đọc rồi và đọc luôn cho ông nghe. Một hôm cô thú thực với ông là cô cũng có một mối tình gần như thế, nhưng đã 5 năm “anh ấy đi bộ đội” chưa về, mà cô chưa hề “lỗi ước với tình quân”! Nguyễn Bính cảm động có làm một bài thơ mới “Cô lái đò ngày nay” tặng cô (tiếc là chưa sưu tầm được!). Khi nghe tin Nguyễn Bính mất, cô đã khóc nức nở và nói với Chu Văn, nguyên trưởng ty Văn hóa:

– Giá chết thay được, thì cháu xin tự nguyện chết thay, để bác ấy sống, bác ấy làm thơ…
Bà chủ nhà mà Nguyễn Bính ở nhờ, nhà cũng nghèo thôi, nhưng trong vườn mùa nào thức ấy, khi quả chuối, khi trái bưởi, lúc tấm mía, lúc củ khoai luôn luôn trân trọng mời Nguyễn Bính ăn, bà nói là “cây nhà lá vườn”, gọi là “bồi dưỡng” nhà thơ… Khi Nguyễn Bính mất, bà đã thắp hương cúng một tuần cho thi sĩ…

Kể ra thì có nhiều hành động tương tự, thiết nghĩ đây mới chính là những quần chúng yêu thơ, yêu nhà thơ sâu sắc và thiết thực. Người nghệ sĩ chân chính nào mà chẳng mong muốn có những độc giả chân tình như thế, còn hơn sau khi mất rồi, bao nhiêu điếu văn, bao nhiêu bài vở, nghiên cứu thật là kêu?

(Theo Chu Văn và ông Thanh)

sưu tầm

Bình luận Facebook