Xuân Diệu – Huy Cận và chuyện văn, chuyện đời
Xuân Diệu và Huy Cận bây giờ đã trở thành người thiên cổ nhưng thơ ca và tình bạn cảm động của hai ông còn ngân vọng mai sau.
Xuân Diệu (sinh năm 1916), Huy Cận (sinh năm 1919) tuy quê gốc cùng ở Hà Tĩnh nhưng Xuân Diệu lại sinh ra và lớn lên ở Bình Định; mãi đến năm 1936, họ mới gặp nhau lần đầu ở trường Khải Định (quốc học Huế). Hai người đọc thơ cho nhau nghe và cảm nhau tức khắc, trở thành đôi bạn tri ân, gắn bó, chung sống bên nhau suốt gần nửa thế kỷ cho đến năm 1985 khi Xuân Diệu mất. Nghĩ lại mối tình ấy, chính Huy Cận nhiều khi cũng thấy làm lạ:
Hai đứa rồi ra nghĩ cũng kỳ
Thương nhau hơn ruột thịt dường ni
Mà đàn mỗi đứa riêng âm sắc
Cuộc sống muôn màu lặp lại chi!
(Nằm bệnh viện, gửi Diệu, 1974)
Đấy là sau này, nhưng ngay khi còn thanh niên, năm 1942, Huy – Xuân đã thấy có một sự gắn bó “định mệnh”. Khi Xuân Diệu làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho, có gửi vải may quần áo cho Huy Cận, lúc đó đang học cao đẳng nông lâm sắp tốt nghiệp. Huy Cận viết:
Mở thư một sáng lạnh lùng
Hai chiều vải dệt tao phùng Huy – Xuân
Dọc ngang tơ chỉ sát gần
Đi về mấy dạo hai thân một hồn
Vào lúc 7 giờ 40 phút ngày 18/12/1985, Xuân Diệu mất, đúng lúc ấy, Huy Cận đang ở Dakar (Senegal) đột ngột bị xuất huyết nặng.
Thật ra, tình bạn của Xuân Diệu và Huy Cận bắt nguồn từ tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hóa dân tộc, rồi sau này là tình yêu cách mạng. Những tình yêu này, thật ra chỉ là một.
Cuối năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học Trường Luật và viết báo Ngày nay. Năm 1938, Huy Cận ra sống với Xuân Diệu ở chân đê Yên Phụ. Năm 1939, họ chuyển về một căn gác nhỏ ở 40 phố Hàng Than. Xuân Diệu tiếp tục học luật và dạy văn ở Trường Thăng Long. Huy Cận học cao đẳng nông lâm. Dưới gác là Lưu Trọng Lư. Sinh thời Huy Cận có kể với tôi rằng, khi Huy Cận in bài Tràng Giang, Lưu Trọng Lư phục lắm, kéo đi chiêu đãi phở Hàng Mành ngon có tiếng hồi bấy giờ. Ăn xong, Lưu Trọng Lư móc túi, không thấy tiền đâu đứng ngơ ngác giữa quán, cuối cùng, thành ra Huy Cận lại phải chiêu đãi.
Đầu năm 1940, “cơm áo không đùa với khách thơ”, Xuân Diệu buộc phải vào Mỹ Tho làm tham tá thương chánh. Những người quen biết Xuân Diệu và Huy Cận, thường kể lại rằng, đó là cách hai người nuôi nhau ăn học. Năm 1942, khi Huy Cận đỗ kỹ sư, làm việc ở Sở nghiên cứu tằm tang, Xuân Diệu điện ra hỏi: “Diệu từ chức được chưa?”, Huy Cận trả lời: “Từ chức ngay! Về Hà Nội ngay”. Từ đó, đôi bạn ở 61 phố Hàng Bông. Những tác phẩm của Xuân Diệu, Huy Cận thời đó thường có dòng “Huy Xuân xuất bản” trên bìa sách.
Năm 1941, Huy Cận tham gia Việt Minh. Năm 1942 đến lượt Xuân Diệu. Năm 1944, Xuân Diệu về thăm quê nội ở Can Lộc rồi lên quê hương Huy Cận ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn. Ông giúp mẹ Huy Cận một số tiền để trả nợ, nói: “Anh Huy Cận hoạt động cách mạng rồi bà ạ. Nếu có điều gì chẳng may, con sẽ thay anh Cận cùng bà lo việc gia đình”.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cả hai cùng lên chiến khu và được kết nạp vào Đảng. Sau hòa bình (1954), Xuân Diệu và Huy Cận được bố trí ở một biệt thự số 24 Cột Cờ, nay là Điện Biên Phủ. Xuân Diệu từng có câu:
Nhà tôi 24 Cột Cờ
Ai yêu thì đến, hững hờ thì qua…
Đó là thời kỳ cả hai cùng cặm cụi làm việc và đạt được những thành tựu lớn trong văn học. Ngoài thơ, Xuân Diệu có Các nhà thơ cổ điển Việt Nam và nhiều công trình có giá trị khác mà nhiều học giả đánh giá, một mình ông là “cả một viện văn học”.
Nhưng không chỉ cặm cụi trong “tháp ngà”. Các nhà thơ của chúng ta đã hơn mười lần đi thực tế ở khu bốn ác liệt, Xuân Diệu đã thực hiện gần một nghìn cuộc bình thơ cho chiến sĩ, công nhân, nông dân và trường học, có sức động viên rất lớn. Trong những ngày ấy, hai cảm xúc lớn của Xuân Diệu là yêu và căm “yêu với căm, hai đợt sóng ào ào, vỗ bên lòng dội mãi tới trăng sao”. Ngoài những bài thơ đanh thép tố cáo tội ác giặc Mỹ, Xuân Diệu vẫn không ngừng làm thơ tình. Ngoài những bài thơ thuần túy như Biển và các bài khác trong tập Cầm tay mà Xuân Diệu từng tâm sự “viết cho bạn trẻ muôn đời vì tình yêu và vĩnh hằng”, những bài thơ tình trong chống đế quốc Mỹ của ông cũng rất thấm lòng người. Ở Thanh Hóa, thấy người vợ tiễn chồng ra mặt trận, ông viết ngay được bài Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng đi vào hỏa tuyến, trong đó có những câu:
Em choàng lưới mũ cho anh
Áo anh em nhuộm màu xanh lá rừng
Chiếc ba-lô cũ đã dùng
Tay em khéo léo chữa từng đường kim
Đó cũng là lúc Huy Cận ngợi ca những người phụ nữ Việt Nam anh hùng:
Tôi chào chị, chào em nghìn đuốc sáng
Một trời sao dân tộc cánh vàng bay…
Sau giải phóng năm 1975, cả hai người vẫn “thi đua” viết, Xuân Diệu được một tập thì Huy Cận cũng một tập. Cả hai hồn thơ lớn đang dang cánh thỏa sức bay trên bầu trời cao rộng của thơ ca, trong cuộc sống tình bạn tưởng như bất diệt. Bỗng một ngày vào tháng 11/1985, Xuân Diệu ngồi bệt giữa phòng nói với Huy Cận: “Trong hai đứa mình, đứa nào chết trước là sướng, đứa nào ở lại sau chắc khổ lắm”. Không ngờ đó là lời trăng trối cuối cùng. Một tháng sau, Xuân Diệu mất. Tôi nhớ, đó là lúc ở Hà Nội đang diễn ra hội nghị những người viết văn trẻ. Những nhà văn, những cây bút trẻ trong cả nước đang háo hức chờ ông đến nói chuyện thì vô cùng đột ngột và thương tiếc khi nghe tin ông mất!…
Người ta đã viết nhiều về Phong trào thơ mới, về riêng Xuân Diệu và Huy Cận. Người ta cho rằng, các ông đã đem lại cho văn chương Việt Nam những sự mới mẻ từ ảnh hưởng của phương Tây. Người ta nói Xuân Diệu là “ông hoàng của thơ tình”, Huy Cận là nhà thơ “mang tâm thức vũ trụ”. Tất cả những điều ấy đúng nhưng không phải cốt lõi nhất. Có lẽ cốt lõi nhất, theo tôi, thơ mới, thơ Xuân – Huy có ngọn nguồn chính từ dân tộc và tinh thần chủ đạo trong dòng thơ đó vẫn là tinh thần yêu nước, một đặc điểm nổi bật nhất, một truyền thống quý báu nhất của văn học Việt Nam.
Tôi đã đọc lại nhiều lần thơ của hai ông và càng ngày càng tin chắc ở điều đó. Thỏa chí nhất của Xuân Diệu là viết về niềm tự hào, về sức sống của dân tộc. Khi cờ đỏ sao vàng cách mạng treo cao, trong sự thăng hoa ấy, Xuân Diệu như càng được bay lên, hứng khởi đến từng chân tơ, kẽ tóc:
Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng!
Những ngực nén hít thở Ngày độc lập!
Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp!
Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca…
Được “trang hoàng” cho Tổ quốc, đấy muôn đời là sứ mạng, là vinh quang của mọi nhà thơ, của mỗi con người. Xuân Diệu đã từng viết một cách sâu sắc: “Cách mạng đã mở ra cho tôi những chân trời mà trước đây tôi không thể mơ ước được… Con dế mèn trong đám cỏ gáy lên không phải để cho riêng mình. Nó gáy lên để tìm bạn. Sự công nhận của đông đảo công chúng là nguồn sức mạnh, nguồn cảm hứng của tôi”.
sưu tầm