google.com, pub-4316186021854010, DIRECT, f08c47fec0942fa0

Những tập thơ tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu - KẾT NỐI CẢM XÚC
KẾT NỐI CẢM XÚC

Những tập thơ tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp thi ca của ông hòa quyện vào nhau trong từng bước đi của lịch sử và thời đại.

Tập thơ Từ ấy

Tập thơ Từ ấy (1937 – 1946) là chặng đường thơ đầu tiên trong đời thơ Tố Hữu, gắn liền với quá trình vận động của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Các phần đều phản ánh rõ nét quá trình giác ngộ và trưởng thành của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.

Phần đầu tiên Máu lửa gồm 27 bài, là thơ của thời kỳ Mặt trận Dân chủ, tập trung vào những vấn đề lớn của thời đại như chống phát xít, phong kiến, đòi hoà bình, cơm áo, vấn đề quyền sống con người và cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là giai đoạn nhà thơ bước vào tuổi thanh niên, được gặp gỡ lý tưởng cộng sản và trở thành một người chiến sĩ hăng hái, một người lãnh đạo phong trào thanh niên dân chủ ở Huế.

Phần Máu lửa cũng cho thấy nội dung chủ đạo là tiếng lòng đồng cảm với những thân phận bị đọa đày, hắt hủi của những người lao động nghèo khổ ở thành thị, được thể hiện rõ nét qua các bài thơ như Hai đứa trẻ, Vú em,…

Xiềng xích gồm 30 bài, được sáng tác trong thời gian tác giả bị giam tại nhà tù đế quốc từ tháng 4 năm 1939 đến tháng 3 năm 1942. Phần này như một bản quyết tâm thư của người chiến sĩ trẻ tuổi tự nhủ với lòng mình không khuất phục trước súng đạn và sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù, không nản chí trước mọi khó khăn trở ngại.

Phần Giải phóng gồm 14 bài, được tác giả viết từ lúc vượt ngục đến một năm sau ngày độc lập, chủ yếu ngợi ca lý tưởng, quyết tâm đuổi giặc, cứu nước và niềm vui chiến thắng.

Tập thơ Từ ấy là một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc đời, trong thơ Tố Hữu. Như chính nhà thơ đã từng viết “ Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp dám sống, dám đấu tranh ”. Có thể thấy được trong tập thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của nhà thơ Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cuộc sống và tác dụng kì diệu của lý tưởng cách mạng đối với đời thơ Tố Hữu :

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”

Trong Từ ấy không chỉ có tiếng chim rộn rã và hương hoa của niềm vui vừa bắt gặp lý tưởng, mà còn có lời an ủi, động viên chân tình đối với những số phận bất hạnh. Và sau cùng, nhân danh cách mạng, Từ ấy là tiếng thét đầy hờn căm, là hồi kèn xung trận thôi thúc mọi người xông lên, vào trận chiến mất còn với kẻ thù để giành lại quyền sống.

Tập thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, tạo bước ngoặt lớn cho quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.”

Tập thơ “Việt Bắc”

Tập thơ “Việt Bắc” được xuất bản lần đầu vào năm 1954, hầu hết trong đó là các bài thơ sáng tác trong những năm kháng chiến chống Pháp. Tập thơ gồm 24 bài (trong đó có 6 bài dịch và 3 bài sáng tác năm 1954) với bài đầu tiên là “Cá nước”, sáng tác năm 1947, và kết thúc với bài “Lại về”. Nhiều tác giả văn học đã coi tập thơ Việt Bắc là tập hùng ca kháng chiến toàn dân trong tám năm ròng rã chống bọn xâm lăng.

Tập thơ đã phản ánh chân thực con đường chiến đấu gian lao và sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những dấu ấn, hình ảnh về cuộc kháng chiến. Tập thơ đánh dấu một bước phát triển của thơ Tố Hữu về giọng điệu, ngôn ngữ. Chất dân tộc đậm đà trong thi liệu bình dị, thể thơ quen thuộc. Tập thơ “Việt Bắc” được tặng giải nhất về thơ của Giải thưởng văn học giai đoạn 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam.

Tập thơ “Gió lộng”

Tập thơ “Gió lộng” được Tố Hữu sáng tác trong 6 năm từ 1955 – 1961, viết trong thời kì đất nước đang tập trung vào hai nhiệm vụ quan trọng: xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ Nguỵ, thống nhất đất nước ở miền Nam. Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, những kế hoạch 5 năm xây dựng đất nước được triển khai. Tập thơ Gió lộng thể hiện nỗi niềm phấn chấn của người xây dựng đất nước: “Gió lộng đường khơi rộng đất trời”.

Tập thơ Gió Lộng “khai thác những nguồn cảm hứng lớn, cũng là những tình cảm bao trùm trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam đương thời: niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, tình cảm với miền Nam và ý chí thống nhất Tổ Quốc, tình cảm quốc tế vô sản rộng mở với các nước anh em”. Bên cạnh đó là sự tin tưởng ở công cuộc xây dựng đời sống mới theo chế độ xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, tình cảm với miền Nam và quyết tâm thống nhất Tổ quốc.

Tập thơ gồm 25 bài thơ, tiêu biểu như: “Người con gái Việt Nam”, “Tiếng chổi tre”,… Tập thơ mang đậm cảm hứng lãng mạn cùng khuynh hướng sử thi và thể hiện một cái tôi công dân.

Tập thơ Ra trận

Ra trận là một tập thơ được đánh giá cao của nhà thơ Tố Hữu. Tập thơ gồm 31 bài, sáng tác trong 10 năm chống Mỹ (1962-1971). Vốn là hồn thơ của yêu thương, nghĩa tình, Tố Hữu ao ước được làm thơ ngợi ca thanh bình. Nhưng khi miền Nam, rồi cả nước, chìm trong nước sôi lửa bỏng thì có thể nào yên, có thể nào khuây…. Tác giả dành phần lớn tâm huyết để ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, do đó, giọng điệu tập thơ thấm đẫm chất hùng ca.

Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam, Bắc. Khẳng định ý nghĩa to lớn, cao cả của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với lịch sử dân tộc và thời đại, thơ Tố Hữu cũng thể hiện những suy nghĩ, phát hiện của nhà thơ về dân tộc và con người Việt Nam mà tác giả luôn ngợi ca với niềm tự hào và cảm phục.

Ra trận (1962-1971) cùng Máu và hoa (1972-1977) là hai tập thơ ra đời trong thời kỳ cả nước chiến đấu kiên cường, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cả hai tập thơ khẳng định phẩm chất con người Việt Nam, đồng thời là khúc ca khải hoàn kết thúc cuộc chiến đấu, Bắc Nam một nhà, non sông liền một dải.

Tập thơ “Máu và Hoa”

Tập thơ Máu và hoa (NXB Tác phẩm mới, 1977) gồm 13 bài, sáng tác trong 6 năm (1971-1977), có ý nghĩa tổng kết quá trình phát triển của dân tộc, của Cách mạng Việt Nam – một hành trình đầy máu, đầy hoa, năm mươi năm máu đỏ thành hoa.

Máu và Hoa (1972-1977) là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt và hào hùng của cả dân tộc cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam, Bắc. Khẳng định ý nghĩa to lớn, cao cả của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với lịch sử dân tộc và thời đại, thơ Tố Hữu cũng thể hiện những suy nghĩ, phát hiện mới của nhà thơ về dân tộc và con người Việt Nam mà tác giả luôn ngợi ca với niềm tự hào và cảm phục.

Tập thơ “Một tiếng đờn”

Sau Máu và Hoa, ở tuổi ngoài 70 Tố Hữu tiếp tục cho ra mắt tập thơ Một tiếng đờn xuất bản năm 1993 với 72 bài thơ sáng tác trong thời hòa bình vào khoảng hơn mười năm (1978 – 1992). Một tiếng đờn, vẫn Tố Hữu trong tiếng thơ quen thuộc nhằm nhắc nhở con người hướng vào những tình cảm lớn của dân tộc, những mục tiêu cao cả của cách mạng, ông vẫn thủy chung với nguồn đề tài của đời sống cách mạng, của toàn đất nước.

Trước một hiện thực mới mẻ, đã có một tiếng nói mới, một giọng điệu mới nơi Tố Hữu, đó là những dòng tâm tư, trăn trở từ mạch cảm xúc trong thời hoà bình, vì đời thôi lửa cháy, nên xuất hiện những dòng thơ tươi xanh – mang đậm cảm hứng thế sự. Ðề tài thơ phong phú, đa dạng: ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, con người; công cuộc xây dựng đất nước đầy phức tạp; tình yêu và số phận con người;… Âm hưởng thơ bớt vang xa (hướng ngoại) mà vọng sâu hơn (hướng nội), đôi khi tưởng chạm tới một điều gì riêng tư của tuổi cuối đời nhìn lại: “Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn”. Ở tập thơ này, Tố Hữu trở về bút pháp nội tâm, rất gần với thời kỳ “Từ ấy”. Có một sự đấu tranh nội tâm rất mạnh:”Mới bảy mươi sao đã gọi là già”.

Tập thơ “Ta với ta”

Và cũng cùng nguồn cảm hứng trong thời hòa bình đổi mới của đất nước ấy, vào tuổi 80 tác giả khẳng định hồn thơ vẫn rạo rực, thổn thức suy tư của mình trong tập thơ Ta với ta. Đây cũng là tập thơ cuối cùng của Tố Hữu, được sáng tác trong khoảng gần chục năm cuối đời (1993- 2001). Giọng thơ chùng xuống, đầy suy tư, trăn trở về lẽ đời, lòng người, về sự hữu hạn của thời gian là nét nổi bật của thơ Tố Hữu ở tập thơ cuối cùng, trong tư cách con người cá nhân hơn là tư cách người chiến sĩ cách mạng trước đây.

Có thể thấy một cách khái quát trong giai đoạn 1945- 1975, thơ Tố Hữu vẫn luôn trung thành với lý tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Thơ có sự thống nhất giữa mục đích tuyên truyền cách mạng và nội dung trữ tình. Xuân Diệu khẳng định “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”.

Sưu tầm

Bình luận Facebook