google.com, pub-4316186021854010, DIRECT, f08c47fec0942fa0

JACK LONDON - MỘT SỐ PHẬN VINH QUANG VÀ CAY ĐẮNG - KẾT NỐI CẢM XÚC
KẾT NỐI CẢM XÚC

JACK LONDON – MỘT SỐ PHẬN VINH QUANG VÀ CAY ĐẮNG

Cuối tháng 9-1916, nhà soạn kịch người Anh gốc Ireland George Bernard Shaw (người được trao giải Nobel Văn học vào năm 1925), nhận được một lá thư từ Mỹ với lời đề nghị thống thiết: “Tôi đã từng viết 33 cuốn sách, vô vàn truyện ngắn và bài đăng báo, nhưng vẫn không biết rõ là các văn sĩ khác được trả thù lao bao nhiêu. Ngài có thể nói chân thành với tôi không, thưa quý ngài đáng kính, nhuận bút của ngài ra sao?”. Tác giả bức thư là nhà văn Mỹ nổi tiếng Jack London (1876-1916).

G.B.Shaw đã nghe và đọc một vài tiểu thuyết của Jack, nhưng ông không thể hiểu nổi sao đồng nghiệp người Mỹ này lại viết cho ông bức thư lạ lùng kia?… Không rõ là G.B.Shaw có trả lời thư của J. London không, nhưng 2 tháng sau đó, nhà văn Jack London đã từ trần ở tuổi 40 bằng một cái chết tự nguyện… vì cùng cực. Phải chăng lá thư trên là tiếng kêu tuyệt vọng cuối cùng của một số phận đầy sóng gió?

𝑳𝒐̛́𝒏 𝒍𝒆̂𝒏 𝒌𝒉𝒐̂𝒏𝒈 𝒄𝒐́ 𝒕𝒖𝒐̂̉𝒊 𝒕𝒉𝒐̛

Jack London sinh ngày 12-1-1876 tại San Francisco, tiểu bang California, với tên khai sinh đầy đủ là John Griffith Chaney trong một khu nghèo khổ của thành phố – “bên kia đường ray” như sau này ông viết. Những thanh ray của tuyến tàu điện chính ngăn San Francisco ra làm 2 nửa: phía bắc là khu của những người giàu; còn phía nam đường ray – người nghèo, thất nghiệp và ăn mày chen chúc.

Jack London đã được sinh ra tại chính khu này và lại là đứa con ngoài giá thú. Ông không bao giờ biết được cha mình là ai, chỉ nghe nói lại đó là một nhà chiêm tinh với những thủ thuật đáng ngờ, một kẻ luôn trốn tránh trách nhiệm làm cha. Tuổi thơ của Jack ngập trong đói nghèo và sự khốn cùng.

Trong một cuốn tiểu sử tự thuật ông viết sau này, ông thú nhận năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên ông phải đi ăn cắp – do cái đói thúc bách – một mẩu sandwich của một cô bé. Mãi tới năm 9 tuổi Jack mới có chiếc áo sơ mi đầu tiên. Tuy là một chiếc áo cũ nhàu nát, nhưng “Tôi phấn khởi biết dường nào. Nhiều ngày liền tôi không cởi áo ra để cho mọi người biết mình cũng có sơ mi mặc như ai”, như Jack đã viết như thế.

Trong một đoạn khác về ký ức tuổi thơ, Jack viết: “Năm 10 tuổi tôi đi đưa báo, tôi phải dậy lúc trời còn mờ tối để kịp giờ học đầu tiên sau khi đã phân phát báo xong. Tôi không bao giờ có đồ chơi cả, tôi không có tuổi thơ thực sự – Điều duy nhất mà tôi nhận biết, đó là đói, đói và đói!”.

Đến khi mẹ Jack cưới John London – một chủ nông khánh kiệt và là cha nuôi cậu bé con Jack, tình trạng kinh tế trong nhà buộc chú Jack nhỏ tuổi phải bỏ học và đi kiếm việc làm. Chàng văn sĩ nổi tiếng của tương lai từ đó thường giao du với các băng nhóm bụi đời, tham dự các cuộc thanh toán trên đường phố và thường bị cảnh sát “hỏi thăm sức khỏe”. Rượu là thứ mà Jack London “nếm trải” ngay từ hồi thơ ấu ấy.

𝑵𝒈𝒂̃ 𝒃𝒂 𝒔𝒐̂́ 𝒑𝒉𝒂̣̂𝒏

Điều ngạc nhiên nhất trong quãng đời “du thủ du thực” ấy là Jack rất thích đọc sách trong những giờ rảnh rỗi. Anh mê đọc các cuốn tiểu thuyết về những miền đất xa xăm. Năm 17 tuổi, Jack London xin được việc làm trên một con tàu đánh bắt hải sản, với những cuộc hành trình thăm thẳm đầy sóng gió. Chàng Jack trẻ tuổi thậm chí còn được giao làm phụ lái của con tàu. Nhưng khi trở về lại San Francisco, thì những đồng tiền dành dụm đã nhanh chóng tiêu tan.

Rồi Jack trở thành “hobos” – một kẻ vô danh trong đội quân cái bang khổng lồ, kiếm sống “như loài thỏ” theo các chuyến tàu hàng ngang dọc khắp nước Mỹ. Sau đó, Jack bị bắt ở Pennsylvania và bị tống giam. Năm 19 tuổi, Jack được tha và trở về California quê hương. Anh không còn là một kẻ cuồng dại ấu trĩ nữa. Jack tìm ra một chân lý: Không có bằng cấp – có nghĩa là thất học – sẽ không làm nên trò trống gì cả. Anh ghi danh vào trường trung học.

Nhưng để có tiền đóng học phí, Jack phải làm thêm. Anh miệt mài học, nhiều đêm trắng Jack không rời các trang sách nhằm bổ sung kiến thức cho mình. Niềm mơ ước lớn nhất của Jack là được ngồi ghế giảng đường Đại học Tổng hợp Berkely. Và Jack đã thi đậu, nhưng do học phí quá cao, anh luôn phải vừa học vừa kiếm tiền: ban ngày tới giảng đường; còn tối anh rửa bát đĩa cho một nhà hàng và sau đó còn tăng ca trong xưởng giặt.

𝑽𝒊𝒏𝒉 𝒒𝒖𝒂𝒏𝒈 𝒓𝒖̛̣𝒄 𝒓𝒐̛̃

Những thử nghiệm văn học đầu tiên của J. London – chủ yếu viết về các giới mà anh đã từng chung sống – hầu hết đều na ná như nhau. Mẩu truyện đầu trên báo Jack được trả 4 USD, sau tăng lên 7-8 USD/truyện. Những mẩu truyện của Jack tuy không được hấp dẫn cho lắm, nhưng mang tính hiện thực đặc trưng cho một người cầm bút thiên về cuộc sống thật của đời thường.

Sau vài tháng J. London đã viết một loạt truyện ngắn được bạn đọc ưa thích, rồi bản quyền tác giả của anh đã tăng lên tới 30, 50, thậm chí 100 USD với những truyện vừa! Khả năng tài chính của Jack đã có “đồng ra đồng vào”, anh quyết định lấy vợ với ước vọng có con trai nối dõi. Tháng 4-1900, J. London kết hôn cùng Elizabeth Maddern với nhũ danh là Bessie. Thế nhưng Bessie chỉ sinh hạ cho anh hai cô con gái.

Năm 1900 J. London cho xuất bản tuyển tập đầu tay “Son of the Wolf” (Con trai của loài sói). Năm sau đến lượt cuốn tiểu thuyết đầu tiên “A Daughter of the Snows” (Con gái của tuyết) ra mắt độc giả. Năm 1902, là cuốn “Children of the Frost” (Những đứa trẻ hận thù). Giới phê bình cổ vũ, độc giả say mê… Sự nghiệp văn chương của Jack London rộng mở đầy hứa hẹn… Khi chiến tranh ở Nam Phi bùng nổ, Jack được một hãng thông tấn lớn ở California cử sang đó làm phóng viên chiến trường.

Sau khi trở về Mỹ, năm 1903, J.London phát hành cuốn best-seller “The Call of the Wild” (Tiếng gọi nơi hoang dã) – quy tụ những kỷ niệm của anh về Alaska. Đến năm sau là cuốn tiểu thuyết “The Sea-Wolf’ (Sói biển) ra đời. Các tác phẩm của J. London nổi như cồn, cùng với vinh quang là các khoản thu nhập mới. Con người không mệt mỏi cùng khả năng sáng tạo phi thường, với vốn sống phong phú thể hiện qua những trang viết, đã bắt đầu không biết đến nợ nần nữa. Với khả năng tài chính hiện hữu, anh mua một trang trại tại thung lũng Trăng gần San Francisco và chính thức cư ngụ ở đó.

𝑽𝒊𝒏𝒉 𝒒𝒖𝒂𝒏𝒈 𝒓𝒂̣𝒏 𝒏𝒖̛́𝒕

Năm 1905, J. London ly hôn Bessie và cưới Charmian Kittredge (1871-1955). Sự nghiệp sáng tạo văn học của Jack cũng thay đổi từ đây. Kế tục “The Call of the Wild” chỉ có cuốn “White Fang” (Nanh trắng) xuất bản năm 1906 là đáng kể. Còn quyển sách kể lại câu chuyện trên biển Thái Bình Dương với con tàu The Snark của Jack là một thất bại văn chương đầu tiên, kéo theo sự suy sụp về thu nhập. Sau thời kỳ này duy nhất cuốn “Martin Eden”, dạng truyện tự thuật trần trụi về Jack London là ít nhiều còn vớt vát một chút uy tín văn đàn của ông.

Những vấn đề tài chính gay cấn, song hành cùng sự va chạm trong gia đình do bà vợ sau của Jack cũng không sinh được “cậu ấm”, là nguyên nhân gây những cú sốc. Để giải sầu, J. London thường ngập sâu vào rượu chè và càng làm cho tình hình tồi tệ hơn. Hiển nhiên những lá thư gửi cho G. B. Shaw, cũng như nhiều văn sĩ nổi tiếng khác được London viết trong trạng thái khủng hoảng… Ngày 22-11-1916, Jack London tự vẫn tại trang trại thung lũng Trăng của mình.

Tác giả của “33 đầu sách cùng rất nhiều truyện ngắn và mẩu tin trên báo” được coi là một trong những nhà văn hiện thực Mỹ hàng đầu. Nét nổi bật trong những cuốn sách của ông là vốn sống thực tế với những bi kịch của cuộc đời. Cho đến nay, Jack London vẫn là một trong những tác giả được bạn đọc khắp thế giới ưa thích nhất.

Theo An ninh thế giới Online

Bình luận Facebook