Bài hát được phổ nhạc từ thơ của Phan Thị Thanh Nhàn đã trải qua tháng năm tồn tại nhưng vẫn tỏa hương bền bỉ như một trái tim mang khát vọng hòa bình và yêu thương.
Có những loài hoa trở nên bất tử vì một bài thơ hay một bài ca. Đó là “hoa sữa” của nhạc sĩ Hồng Đăng, “màu tím hoa sim” trong thơ của Hữu Loan, “hoa sứ nhà nàng” trong nhạc của Hồng Phương… Tất nhiên khi điểm danh sách ấy, không thể quên “hoa bưởi” trong Hương thầm của nhạc sĩ Vũ Hoàng, phổ thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
Bưởi là một thứ cây phổ biến ở nhà quê. Cây dễ trồng, dễ chăm sóc, quả lại rất lành. Đến tháng ba, khi “mưa xuân phơi phới bay”, cũng là lúc bưởi ra hoa. Đầu làng, cuối xóm, bỗng đâu ngào ngạt hương thơm. Đó là thứ hoa âm thầm đến lạ, chưa thấy hình đã thấy hương, còn chưa kịp thấy bóng hoa, người đã ngây ngất vì mùi thơm thanh khiết.
Người xưa chơi hoa thường chuộng hương hơn chuộng sắc. Bởi thế những thứ hoa rực rỡ như mẫu đơn, hải đường, phù dung, thược dược… vẫn thường bị các cụ chê là “hữu sắc vô hương”, giống như người đàn bà đẹp mà không có duyên. Hoa bưởi thì ngược lại, “hữu hương vô sắc”: hương thơm thì vô cùng nhưng dáng hình lại mộc mạc.
Hoa có năm cánh đầy đặn, trắng muốt; uốn cong cong về phía cuống, khoe nhụy vàng thơm phức. Hoa bưởi một khi đã nở, ít khi nở vài bông hay vài chùm, mà thường nở một loạt, nở cả cây. Khắp những vòm lá xanh tươi là những chùm bông trắng tinh ẩn hiện. Hoa bưởi giản dị lắm nhưng lại quyến rũ như người thôn nữ có duyên ngầm.
Trước Phan Thị Thanh Nhàn, hoa bưởi đã xuất hiện trong ca dao và nhiều nhất là trong thơ Nguyễn Bính. Nhiều người vẫn thuộc câu ca “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay những dòng tươi thắm tả cảnh mùa xuân “Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng – Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng” (Nguyễn Bính). Nhưng phải đến Phan Thị Thanh Nhàn, hoa bưởi mới trở thành nhân vật chính trong một bài thơ.
Bài thơ ấy mang tên Hương thầm, tác giả sáng tác để tặng người em ruột tên là Phan Hữu Khải. Hồi ấy nhà bà ở Yên Phụ, trong sân có cây bưởi, cứ độ tháng ba về là hương thơm ngào ngạt. Em trai bà thường nhặt hoa rụng và hái hoa tươi cho vào túi để chị xách đi làm.
Ở lớp, có một bạn gái có vẻ rất gắn bó gần gũi với Khải nhưng anh không hay biết, chỉ có người chị đa cảm là để ý. Rồi anh lên đường đi bộ đội, ở chiến trường có lần được nghe Đài tiếng nói Việt Nam ngâm bài thơ, anh viết thư về kể cho chị. Phan Thị Thanh Nhàn chưa kịp hồi âm bà sáng tác bài thơ ấy từ chuyện của anh thì anh đã hy sinh. Anh ngã xuống mà không hề biết rằng mình đã được chị gái tặng riêng cho một bài thơ.
Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn từng chia sẻ trên báo: “Hương thầm cứ lặng lẽ, đến người đưa tiễn cũng không hay biết, ngay cả khi nằm xuống đất lạnh rồi vẫn không hay biết”.
Hương thầm sau đó được giải nhì cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ năm 1969. Đến năm 1984, bài thơ được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc, như được chắp thêm đôi cánh để càng vươn xa hơn đến mọi miền của tổ quốc.
Hương thầm bắt đầu bằng hình ảnh những khung cửa để ngỏ. Hai người bạn “thanh mai trúc mã” lớn lên bên nhau với cây bưởi là chứng nhân lặng lẽ:
“… Khung cửa sổ hai nhà cuối phố
Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ,
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa…”
Nhà phải có cây bưởi mới biết hoa bưởi hữu dụng đến mức nào. Hoa bưởi được người ông đem ướp với trà để đãi khách những mùa sau. Người bà tần tảo đem hoa bưởi ướp với mía lùi làm quà ngon cho các cháu. Những ngày nóng nực, người mẹ đem hoa bưởi rắc lên bát chè đậu đen ngọt lành. Người chị để hoa trong vuông khăn giắt trong túi áo hoặc cài lên mái tóc để làm điệu.
Trẻ con dùng chỉ xâu qua những đóa hoa để kết thành vòng tay, vòng cổ xinh xắn. Lại có khi hoa được giắt lên mái đầu khi các em chơi trò cô dâu chú rể. Chàng trai và cô gái nhà bên có lẽ đã lớn lên với những kỷ niệm dịu ngọt từ những mùa hoa bưởi đi qua như thế.
“… Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô bé ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Bên ấy có người ngày mai đi xa…”
Những rung động đầu đời chưa kịp gửi trao thì chàng trai đã phải ra trận, “xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao”. Ở một mùa hoa bưởi khác trong thơ của Tô Hùng một cuộc biệt ly như thế cũng đã diễn ra:
“Mỗi mùa xuân thơm lừng hoa bưởi
Rắc trắng vườn nhà những cánh hoa vương
Em lại nhớ ngày xưa anh ra trận
Cũng giữa mùa hoa bưởi ngát hương”
“Của tin gọi một chút này làm ghi”, cô bé hái một chùm hoa bưởi, giấu trong khăn tay định tặng người ra trận. Chỉ một từ “ngập ngừng” thôi mà như diễn tả được bao nét ngại ngùng, bẽn lẽn của người thiếu nữ dịu dàng.
“Nào ai đã một lần dám nói
Hương bưởi thơm cho lòng bối rối
Cô bé như chùm hoa lặng lẽ.
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu”.
Thời ấy, tình yêu trong sáng lắm. “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Người thiếu nữ đoan trang e thẹn chẳng dám mở lời. Chàng trai, đứng trước cuộc sinh ly tử biệt, dù trong lòng có tình cảm cũng phải kìm nén, sợ nói ra nhỡ có bề gì, trở thành gánh nặng cho người ở lại.
Trong thơ của Phan Thị Thanh Nhàn, sự bối rối ấy được diễn tả rõ hơn: “Họ ngồi im không biết nói năng chi – Mặt chợt tìm nhau rồi lại quay đi”; “Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối – Anh không dám xin – Cô gái chẳng dám trao”.
Tình yêu thời chiến là thế: kín đáo, âm thầm nhưng không kém phần nồng nàn lãng mạn. Vì lý tưởng, họ sẵn sàng lên đường, ấp trong tim một khối tình chẳng bao giờ dám ngỏ. Có những người lính ngã xuống vẫn chưa từng một lần được yêu, chưa từng được nếm vị ngọt ngào của bờ môi thiếu nữ:
“Em ơi rất có thể
Anh chết trong chiến tranh
Đôi mươi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn”
(Hôn – Phùng Quán)
Nếu mùi hương hoa bưởi đã nói hộ tấm lòng người thiếu nữ, thì Hương thầm có thể coi là thay lời muốn nói của cả một thế hệ đã trải qua tuổi thanh xuân đẹp nhất của mình nơi chiến trường:
“… Hai người chia tay nhưng chẳng nói điều chi
Mà hương thầm theo mãi bước người đi
Hai người chia tay sao chẳng nói điều gì?
Mà hương thầm vương vấn mãi người đi…”
Không một lời yêu nào được ngỏ, không một lời hứa hẹn nào được trao. Chỉ có những câu hỏi không lời đáp để lại bao xao xuyến trong lòng người nghe.
Tròn 30 năm Hương thầm được phổ nhạc, có rất nhiều ca sĩ đã thử sức với bài hát này. Nhưng có lẽ Bảo Yến là người thể hiện thành công hơn cả. Giọng hát của chị chân phương, mộc mạc, không luyến láy điệu đà như nhiều ca sĩ sau này, cũng giống như hoa bưởi không phô trương mà vẫn nồng nàn.
Người ta vẫn thương hoa bưởi vì để lại mùi hương rất lâu. Hoa đã tàn rồi mà trên tay, trong nếp áo, mái đầu của người hái hoa vẫn còn thoang thoảng mùi hương. Hương thầm cũng vậy, 45 năm thành hình dưới dạng bài thơ, 30 dưới dạng nhạc, vẫn tỏa hương bền bỉ như khát vọng tình yêu và hòa bình vẫn chẳng bao giờ thôi trăn trở trong tim người Việt.
sưu tầm