Giai thoại về Nguyễn Công Trứ luôn luôn làm chúng ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và thầm khâm phục về trí thông minh cũng như tài ứng xử của Người.
Tưởng mần ba trự
Nhận được quan tiền thưởng, tan buổi học trên đường về Củng gặp một đám trẻ con đang tụ nhau đánh đáo ăn tiền. Như những đứa trẻ ham chơi khác, Củng liền nhập bọn; và cũng như những đứa trẻ mải chơi khác, cậu say sưa đánh cho tới khi bị thua hết sạch cả quan tiền mới thôi. Nhưng cái khác của Củng là ở chỗ, mọi đứa trẻ khi thua bạc sẽ tiếc đứt ruột, hậm hực bỏ về, thậm chí cả khóc nữa, còn Củng thì vừa đi về nhà vừa đọc:
Tưởng mần ba trự mà chơi vậy,
Bỗng chốc nên quan đạ sướng chưa?!(3)
Thật ra, đây có thể chỉ là một câu nói buột miệng, lúc đó cậu trò Củng chắc không cố ý làm thơ; nhưng nó đã bộc lộ tính cách ngang tàng, phóng túng, “tay chơi” của Nguyễn Công Trứ, mà người đời sẽ gọi là thơ văn khẩu khí; và câu nói đó được truyền tụng khắp làng, rồi đi vào sách vở, lan ra khắp thiên hạ… thành giai thoại, thành thơ.
Sẵn sàng càn khôn ghé thẳng vai
Vào một ngày hè nóng nực, thầyhọcdẫn cả đám học trò đi ra con sông cách trường độ hơn một cây số để tắm mát, hòng làm dịu bớt cái nóng ghê người của xứ Nghệ. Khi đi qua cái cống lớn đầu làng được xây ghép bằng những tảng đá xanh, thầy tức cảnh nghĩ ra một vế đối Nôm, bảo các trò cùng đối:
Đá xanh ghép cống, hòn dưới nống hòn trên.
Trong khi các trò khác đang vắt óc suy nghĩ thì cậu Củng đã có ngay vế đối:
Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước.
Câu đối về chữ nghĩa thật là chuẩn, lại chơi chữ tài tình: “cống” vừa là cái cống (bằng đá), vừa là người đỗ Cử nhân (Cống sinh dưới triều nhà Nguyễn); còn “nghè” vừa là cái miếu nhỏ thờ các danh nhân địa phương (từ này nay đã ít dùng), vừa là người đỗ Tiến sĩ, tức ông Nghè; thêm vào đó người đời còn tìm thấy cái thú vị ở khẩu khí của người đối: hậu sinh sẽ khả uý, lớp sau sẽ hơn (đè) lớp trước!(4).
Đang nói chuyện thì một trận mưa to ập đến, thầy trò phải vội vàng chạy vào xin trú trong một quán nước ven đường.
Ngay lúc đó có một người đàn ông gánh cỏ đi ngang cũng vội quẳng gánh ngoài trời chạy vào mái hiên của quán trú mưa. Lát sau, trời vừa ngớt, người đàn ông đã vội vã ra nâng gánh cỏ lên vai chạy đi tiếp.
Nhân đó, thầy bảo các trò thử làm vài câu thơ tức cảnh nói về người gánh cỏ nọ. Trong khi các cậu bé khác đang vò đầu tìm chữ nghĩa thì trò Củng đã ứng khẩu đọc hai câu:
Tạnh cơn phong vũ lò ngay mặt,
Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai.
Thầy học và tất cả mọi người trong quán đều tấm tắc khen hai câu thơ tuyệt diệu của Củng, vừa hợp cảnh, vừa bộc lộ chí khí của một đấng trượng phu tương lai. Còn về phép đối thì khỏi phải nói: hoàn chỉnh, chan chát từng ý, từng chữ – “cơn phong vũ” đối với “gánh càn khôn”, “ngay mặt” đối với “thẳng vai”…
Và thầy càng khẳng định dự đoán trò Củng về sau sẽ làm nên công to nghiệp lớn.
Nín hơi biển động ba tầng sóng
Một hôm, thầy học đến thăm nhà trò Củng, cùng với thân phụ của cậu ngồi đàm đạo, lâu lâu hai người lại kéo thuốc lào, thả khói thơm lừng từng đám bay ra như mây.
Củng được phép đúng bên hầu thầy và cha để hóng chuyện. Chợt thấy cha đưa tay vê vê điếu thuốc nạp vào nõ, cậu vội đốt đóm đưa lên. Cụ Đức Ngạn Hầu rít một hơi dài khoan khoái, rồi nhả khói bay ra thành luồng như một con rồng uốn khúc. Cúi mình đón cái điếu cày từ tay cha, bất ngờ cậu bé Củng ứng khẩu đọc luôn hai câu:
Nín hơi, biển động ba tầng sóng,
Há miệng, rồng bay chín khúc mây.
Thầy học không nín được, vỗ đùi khen hay. Cha của Củng cũng tròn mắt nhìn, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Như được động viên, Củng sung sướng đọc tiếp:
Ba tầng sóng dội vang trời bể
Năm sắc mây bay thấp thoáng trời.
Thấy trò Củng đọc bốn câu thơ xuất thần đó, thầy học đắc ý lắm, gọi cậu đến gần, xoa đầu khen ngợi rồi nói với cụ thân sinh của cậu:
– Trò Củng sẽ có một tương lai phong vân đắc lộ, sự nghiệp kinh nhân, tôi rất hãnh diện có một môn sinh như Củng. Nhưng ở đây trường tư nhỏ bé, trình độ các học sinh còn thấp kém nhiều so với Củng.
Nếu Củng còn lưu học ở đây, tôi e sẽ làm uổng phí thì giờ của Củng. Vậy tôi khuyên ngài nên cho Củng xin lên trường quan Đốc trên tỉnh theo đòi bút nghiên để chóng thành tài…
Nghe theo lời khuyên của thầy, Củng từ đó được lên tỉnh thành Hà Tĩnh học. Trước ngày lên đường đi học với thầy khác, Củng đến dâng thầy học cũ của mình đôi câu đối để tạ ơn:
Tuy tôn sư chi giáo trạch vô cùng, hà cảm xá cận nhi cầu viễn;
Nhi quốc gia chi học quy hữu định, tương sử tự hạ tiệm thăng cao.
Nghĩa là:
Tuy ơn giáo dục của tôn sư vô cùng, đâu dám bỏ nơi gần mà đi tìm nơi xa;
Nhưng phép học hành của quốc gia có định, nên phải từ chỗ thấp mà bước lên chỗ cao.
Thế là “túi đàn, cặp sách đề huề”, trò Củng rời đất Nghi Xuân lên đường vào thành Hà Tĩnh học. Lúc này cậu đã 15 tuổi, trở thành Nho sinh trường Đốc học của tỉnh.
Khả úy đoan đoan đích hậu sinh
Vừa mới lên tỉnh học được ít lâu, một chiều nọ đẹp trời, Nho sinh Củng lang thang dạo phố thì bỗng gặp một đoàn xe ngựa của quan Tuần phủ đi hành hạt, dù lọng nghênh ngang, tiền hô hậu hoán.
Đang lớ ngớ không biết đường tránh, cậu vô tình cản đường đoàn người ngựa và bị toán lính hầu bắt tới trình quan về tội vô lễ. Cậu trò vừa bị giải đến nơi, đã nghe quan quát hỏi:
– Sao cậu dám thất lễ với bản quan?
– Bẩm quan lớn, tiểu sinh nguyên học ở trường làng, vừa mới lên tỉnh chưa biết rõ các nghi lễ nên mới vô tình vô lễ, xin quan lớn dung thứ.
– À, nếu cậu đúng là sĩ tử trường Đốc học, bản quan sẽ ra một vế đối, cậu đối hay thì được tha, bằng không sẽ bị giam về tội “phạm thượng”!
Rồi quan đọc:
– Khách khoa bảng, khách văn chương, giữa quan khách, khách lại gặp khách.
Không nghĩ ngợi lâu, Nho Củng ứng khẩu đối ngay:
– Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết ai!
Củng lại tung ra một câu thơ khẩu khí! Quan Tuần phủ nghe xong hết lời khen cậu là kẻ thiếu niên mà chí khí lớn lao, nên chẳng những tha lỗi cho mà còn thưởng thêm một quan tiền đồng (trị giá bằng sáu quan tiền kẽm).
Rồi quan quay sang nói với các vị đồng hành:
– Quả là Khả úy đoan đoan đích hậu sinh.
Đây vốn là một câu cổ thi, nghĩa là: “Kẻ hậu sinh nầy rất đáng sợ”.
(Theo vanhoanghean.com.vn)