Chuyện tình không biên giới và bài thơ tình hay nhất thế kỷ XX

Chàng là một sinh viên Việt Nam tài hoa với rất nhiều tài lẻ, du học tại Rumani những năm 60 cuả thế kỷ XX. Nàng là sinh viên người bản xứ, xinh đẹp, tóc vàng, mắt biếc. Như duyên trời định, họ bất ngờ gặp và quen nhau trong một kỳ nghỉ hè bên bờ Biển Đen. Và họ yêu nhau. Tình yêu nồng nàn đắm say của tuổi trẻ dạt dào như sóng biển. Thế nhưng, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ quá khắc nghiệt, chàng bị “tổ chức” bắt buộc phải chia tay nàng mà không được tiết lộ với người yêu nguyên do… Bỗng dưng chàng biến mất, cô gái đã phát bệnh tâm thần và lang thang đi tìm người yêu ở tất cả những nơi trước đây 2 người đã từng hò hẹn, từng chỉ non thề biển… Chàng trai đau khổ đến tột cùng khi phải câm lặng chứng kiến nỗi đớn đau vì bị phụ tình của cô gái trong trái tim mình, chàng đã bật lên những lời thơ, mà lúc ấy chàng không hề nghĩ rằng nó đã lập tức trở thành những áng thơ tình bất hủ và sau này còn được bình chọn là một trong những bài thơ tình hay nhất thế kỷ XX…

          Rụt rè… vụ kiện đòi nhận bản quyền của “thi phẩm bất hủ”

 

Hơn 30 năm qua, các thế hệ sinh viên VN, đặc biệt là SV miền Bắc và những người yêu thơ đã cực kỳ yêu thích bài thơ “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban- căng”, một bài thơ tình với những lời thơ nồng nàn, da diết: “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban-căng/ Tìm không thấy chỉ thấy trời im lặng/ Một mình em trong màn đêm thanh vắng/ Tim bồi hồi chân bước vội dưới trăng”. Chúng tôi đã thuộc, đã chép cho nhau, truyền tay nhau những câu thơ tình bất hủ, mặc dù không biết tác giả là ai, nhưng ai cũng nghĩ rằng đó là câu chuyện tình của những chàng trai cô gái châu Âu xa xôi. Cho đến năm 1990, khi NXB Văn hoá cho ấn hành cuốn sách Almanach Người mẹ và phái đẹp, trong mục “Những bài thơ tình hay của Việt Nam và thế giới” đã tuyển chọn bài thơ này và ghi rất rõ tác giả là Onga Becgon (một nữ thi sỹ nổi tiếng của nước Nga) thì chúng tôi càng hồn nhiên tin rằng đó là một tác phẩm xuất sắc của thi ca châu Âu, mặc dù NXB không ghi rõ ai là dịch giả.

 

Thật bất ngờ, cuối năm 2004, trong một lần gặp gỡ bạn bè thân thiết ở TP Hồ Chí Minh ra công tác Hà Nội, vô tình tôi được tiếp xúc với kỹ sư hóa học Khổng Văn Đương. Thấy chúng tôi nói chuyện văn chương, Khổng tiên sinh rụt rè thổ lộ rằng thời trẻ ông cũng từng làm thơ, ông có bài thơ “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban-căng” được in trong cuốn Almanach, nhưng tiếc rằng NXB lại nhầm là của Onga Becgon. Chúng tôi vô cùng sửng sốt. Nhưng sau khi nghe ông kể lại toàn bộ câu chuyện tình của ông khi còn là chàng SV Việt Nam trên đất Rumani với cô gái người bản xứ tóc vàng, bi kịch bị ép buộc phải từ bỏ tình yêu của mình và bức thư oán trách của cô gái đã là khởi nguồn cho bài thơ ra đời, thì chúng tôi đã thực sự bàng hoàng kinh ngạc. Và chúng tôi càng kính trọng tác giả của bài thơ hơn khi biết rằng suốt mấy chục năm qua, ông đã giữ im lặng hoàn toàn, cho dù hàng triệu người yêu thơ cũng như rất nhiều nhà xuất bản nghiễm nhiên coi “đứa con tinh thần” của ông là của người khác. Thấy chúng tôi chân thành khuyên ông nên làm đơn gửi kèm các chứng cứ đến Trung tâm quyền tác giả văn học (thuộc Hội Nhà văn VN) yêu cầu xác minh, chứng nhận bản quyền, Khổng Văn Đương rụt rè thổ lộ: ngay sau khi cuốn Anmanach do NXB Văn hoá xuất bản, ông đã viết một bức thư định gửi cho NXB yêu cầu đính chính, nhưng đắn đo mãi đến nay vẫn chưa gửi.

 

Chuyện tình không biên giới của chàng SV Việt

 

Khổng Văn Đương sinh năm 1945, tuổi ất Dậu, quê ở Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ông không chỉ học rất giỏi mà còn làm thơ hay. Đến nay ông vẫn còn lưu giữ nhiều bài thơ trong số hơn 100 bài do ông sáng tác, từ sáng tác “đầu tay” khi còn là HS phổ thông cho đến khi ông phải “ngửa mặt lên trời than rằng “từ nay ta không làm thơ nữa” và bẻ gãy cây bút vào năm 1969 bởi nỗi lòng đau khổ vì yêu”- theo như ông tâm sự. Năm 1965 ông được Bộ Giáo dục chọn đi học Đại học Hoá học tại trường Đại học Bách khoa Georges Dej Bucarest Rumani. Số phận run rủi hay duyên kỳ ngộ khiến mùa hè năm 1966 khi đi nghỉ mát tại Biển Đen, Khổng Văn Đương đã gặp Valentina một cô gái Rumani tóc vàng hạt dẻ, mắt xanh, cô 17 tuổi học sinh lớp 12.

 

-Một năm sau, vào dịp nghỉ hè năm 1967, Valentina lên nhà ông chú ở Bucarest chơi, ngay chỗ tôi đang học. Nàng gọi điện cho tôi đến chơi. Run bắn lên vì sung sướng, tôi vội vàng đi gặp nàng. Chúng tôi đã gắn bó với nhau suốt kỳ nghỉ hè. Đó là một thời gian tuyệt đẹp – Khổng tiên sinh bồi hồi nhớ lại. Tình yêu của hai chúng tôi nảy nở tốt đẹp, chúng tôi yêu bằng cả trái tim chân thành và trong sáng. Tôi đã cùng người bạn học thân thiết là anh Doanh về thăm nàng tại quê vào mùa đông năm 1967. Hôm đó bão tuyết mịt mùng, khi thấy tôi, nàng mừng đến nỗi nhảy chồm lên ôm lấy tôi, rồi nàng giới thiệu tôi với bố mẹ. Sau đó mỗi lần tôi đến chơi, mẹ nàng lại cho lúc giỏ táo, lúc trứng gà, lúc rượu trái cây. Nhưng tiếc rằng thời điểm đó chiến tranh chống Mỹ của nhân dân ta đang vào giai đoạn khốc liệt, nên chuyện yêu đương của bất cứ một SV Việt Nam nào với người bản xứ đều không được Ban chấp hành Đoàn và tổ chức SV tại Rumani chấp nhận. Tôi bị tổ chức phát hiện, bắt làm kiểm điểm và yêu cầu phải chấm dứt quan hệ. Thấy rõ nguy cơ nếu tiếp tục duy trì tình yêu thì sẽ bị trục xuất về nước, lúc đó thì gia đình, họ hàng dòng tộc chắc không ai thèm nhìn mặt tôi nữa, vả lại thâm tâm tôi cũng thấy phần nào có lỗi với các chiến sỹ ta đang chiến đấu ở chiến trường khốc liệt, do đó trong một lần đi chơi với Valentina, tôi đã đề nghị và quyết định hai chúng tôi phải cắt đứt quan hệ mà không nói lý do thực. Tôi hoàn toàn không ngờ việc đó đã gây ra một hậu quả rất đau buồn đối với nàng. Sau đó khoảng nửa tháng, tôi nhận được một lá thư  của Valentina với lời lẽ hết sức bi thiết và oán hận. Xúc động trước tình cảm chân thành, tha thiết này, tôi đã viết bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng” chỉ trong một buổi chiều. Bài thơ đã phỏng lại gần như toàn bộ nỗi niềm ai oán, giận hờn của Valentina thể hiện trong thư nàng và tâm hồn tôi lúc đó cũng vô cùng trơ trọi, trống vắng. Một điều hết sức đau khổ nữa là sau cú sốc đó, đang là SV trường Đại học Tổng hợp Bucarets, Valentina bị ngẩn ngơ đến nỗi phải nghỉ học mất một năm. Còn tôi bị tổ chức tịch thu tập thơ (trong đó có khoảng 50 bài tôi viết cho nàng), cả thư từ, ảnh chụp với nàng. Vì vậy tôi đã bẻ bút, thề không làm thơ nữa… Và cho đến nay, 40 năm trôi qua, tôi quả thực không hề làm một câu thơ nào nữa, nhưng tôi có thể sẽ công bố một số bài thơ sáng tác lúc còn… chưa bẻ bút…

 Kết thúc có hậu chính từ tình yêu đẹp trong cuộc sống

          -Vậy thời gian sau đó ông có thông tin gì về nàng không?

-Sau khi về nước công tác, tôi vẫn canh cánh trong lòng nỗi niềm và lo lắng cho nàng. Nhưng thật may mắn, năm 1979, có dịp đi công tác tại Tiệp Khắc, tôi đã hồi hộp tìm kiếm cơ may gặp lại nàng. Đến Tiệp Khắc, tôi liền điện thoại tìm nàng. Mấy hôm sau nàng đã cùng chồng và một đứa con có mặt tại Tiệp Khắc thăm tôi. Lúc ấy nàng đang làm việc tại Hội hữu nghị Rumani-Đức. Tôi thật vui mừng khôn xiết vì nàng khoẻ mạnh, vẫn xinh đẹp và đã có hạnh phúc gia đình, không như tôi vẫn canh cánh lo cho nàng…

Câu chuyện tình của Khổng Văn Đương quả có một kết thúc có hậu, và câu chuyện về bài thơ bị thất truyền của ông cũng đã kết thúc có hậu. Đó là sau khi nghe theo lời khuyên của chúng tôi, ông gửi hồ sơ đến Trung tâm Bản quyền của Hội Nhà văn VN, Trung tâm đã xác minh, và bài thơ “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban-Căng” đã được trả lại tên cho khổ chủ, Khổng Văn Đương được cấp giấy chứng nhận bản quyền tác giả.

 

Nhưng còn một bất ngờ nữa mà chàng thi sỹ từng “bẻ bút rồi ngửa mặt lên trời thề không làm thơ nữa” này không hề ngờ tới, đó là khi câu chuyện về tác giả đi tìm lại bản quyền thơ sau gần 40 năm của ông được chúng tôi đăng tải trên một tờ báo, lập tức có hàng nghìn bạn đọc ở khắp nơi trong nước và nước ngoài đã gửi thư, điện thoại liên hệ với ông và với toà soạn. Nhiều người bạn cùng học biết rõ về ông, về hoàn cảnh và xuất xứ bài thơ thì vui mừng vì tìm lại được bạn cũ sau mấy chục năm xa cách, còn những người khác là SV cùng thế hệ với ông tại Rumani, thuộc bài thơ, yêu quý bài thơ nhưng không hề biết mặt tác giả, hoặc quên mất tên tác giả, dù họ đều biết xuất xứ bài thơ là của một chàng SV Việt sáng tác tại Rumani. Khổng tiên sinh vui vẻ khoe:

 

-Ông Lâm Quế- nguyên là Bí thư thứ 2 Đại sứ quán VN tại Rumani phụ trách lưu học sinh thời ấy, cũng vừa đến thăm và an ủi tôi “Khổng Văn Đương nên coi chuyện cũ là một kỷ niệm…”.

 

          -Thế là nhà hóa học Khổng Văn Đương bỗng nổi tiếng như cồn với tư cách một nhà thơ có tác phẩm bất hủ của thế kỷ?

 

-Cuộc đời quả không định trước. Tôi bỗng nhiên gặp các bạn, khiến “máu” văn chương nổi lên, thế là đem câu chuyện gần 40 năm không ai biết ra kể. Thực ra cũng đã có lúc tôi định gửi thư cho NXB Văn hoá sau khi họ in Amanách, nhưng tôi lại sợ không ai tin mình chứ. Khi các bạn khuyên tôi nên gửi đơn đến Trung tâm bản quyền, tôi cũng làm theo với suy nghĩ không nhằm đòi hỏi một quyền lợi gì về vật chất mà chỉ mong bất kể ai cũng có thể sao chép vào những mục đích tuyên truyền văn hoá lành mạnh, tôi chỉ muốn bài thơ thêm chút thi vị và những bạn yêu thơ có quyền biết về nguồn gốc ra đời của tác phẩm…

                                    

Em đi tìm anh trên bán đảo Ban-căng

Khổng Văn Đương

 

Em đi tìm anh trên bán đảo Ban-căng

Tìm không thấy chỉ thấy trời im lặng

Một mình em trong màn đêm thanh vắng

Tim bồi hồi chân bước vội dưới trăng

 

Em trèo lên đỉnh núi cao Các-pát

Nhìn theo anh mất hút biết về đâu

Chân ai đi xa lắc tím trời Âu

Dòng nước mắt bỗng trào ra chua chát!

 

Em lại đến Biển Đen xưa dào dạt

Sóng xô bờ liên tiếp gọi triền miên

Buồn! Chao ôi, gió làm em phiêu bạt

Thân cô đơn kinh khiếp cả trăng hiền!

 

Ôi dòng xanh rầm rì sông Đa- nuýp

Mây trời in lồng lộng giữa dòng sông

Nên ngàn năm êm đềm trôi một nhịp

Chỉ mình em nhức nhối vết thương lòng!

 

Hỡi trái đất rộng làm chi bao la

Cho loài người chia biên giới thế gian

Cho sa mạc nổi bùng cơn bão cát

Cho tình anh chưa bén đã lụi tàn?

 

Em xin hỏi Trời cao và Đức Phật

Cõi Niết Bàn có mãi mãi mùa xuân

Đâu trời Tây, đâu xa gần cực lạc

Mà trần gian đầy bể khổ trầm luân?

 

Con lạy Chúa Jêsu ban phép lạ

Cho nước Người hết ly biệt, chia phôi

Hai chúng con quỳ trước Người đa tạ

Xin hoà tan làm một, ngàn đời!

 

Em cầu nguyện. Còn anh anh chẳng biết

Trái tim anh sao giá lạnh thờ ơ?

Và hôm nay dù tình anh đã hết

Em vẫn mong, vẫn hy vọng, vẫn chờ…

 

Vẫn trèo lên đỉnh cao Các-pat

Vẫn theo dòng Đa-nuýp những đêm trăng

Em lại đến Biển Đen xưa dào dạt

Đi tìm anh trên bán đảo Ban-căng!

Bucarest, 19-3-1969

 

 

Đã đang Đang yêu số 10 – 2010

 

Bình luận Facebook