Câu chuyện cuộc đời Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử (22/9/1912 – 11/11/1940) là nhà thơ nổi bậc của Việt Nam, là người khởi xướng nên trường thơ loạn, đi tiên phong trong dòng thơ lãng mạn hiện đại.

Nói về Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên ca ngợi: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

Đôi nét về Hàn Mặc Tử:

Tên thật: Nguyễn Trọng Trí
Bút danh: Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần
Quê quán: Làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình
Cha: Nguyễn Văn Toản
Mẹ: Nguyễn Thị Duy
Giai đoạn sáng tác: 1928 – 1940
Trào lưu: Lãng mạn

Tác phẩm: Vội vàng chi lắm, Mùa Xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Bẽn Lẽn, Ngủ với Trăng, Thức khuya,…

Ý nghĩa bút danh Hàn Mặc Tử:

Bút danh Hàn Mạc Tử của nhà thơ mang nghĩa là một chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Về sau những người bạn đã gợi ý anh nên vẽ thêm một nét trăng khuyết vào để tăng thêm phần lạnh lẽo cho sự cô đơn của con người trước thiên nhiên. Mặt trăng đó được Hàn Mặc Tử đặt vào chữ Mạc mà thành ra chữ Mặc, Hàn Mặc Tử có nghĩa là “chàng trai bút nghiên”. Và có vẽ như bút danh đã vận vào cuộc đời của nhà thơ tài hoa bạc mệnh, những năm tháng cuối đời Hàn Mặc Tử phải sống trong cảnh lẻ loi, đau đớn vì bệnh tật.

Hàn Mặc Tử sinh ra với thân hình gầy guộc, ốm yếu, từ nhỏ tính tình hiền lành, ham học, vốn có lối sống giản dị và thích giao du với những người bạn có chung niềm đam mê thơ ca với mình. Hàn Mặc Tử bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ khi còn rất trẻ, lúc ấy nhà thơ mới chỉ 16 tuổi, và Phan Bội Châu chính là người có nhiều ảnh hưởng đến thơ ca của anh.

Năm 21 tuổi, Hàn Mặc Tử rời quê vào Sài Gòn lập nghiệp, trở thành phóng viên phụ trách mảng thơ cho tờ báo Công Luận, đây cũng là thời điểm ông và Mộng Cầm quen biết nhau. Mộng Cầm là một cộng tác của tờ báo, cô có niềm đam mê thơ ca và thường xuyên làm thơ gửi lên toà soạn. Dần dà, Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm thư từ qua lại, hai người tâm đầu ý hợp, Hàn Mặc Tử quyết định ra Phan Thiết gặp nàng thơ của mình và bắt đầu một chuyện tình lãng mạn.

Khi Hàn Mặc Tử 23 tuổi (năm 1935) trên cơ thể anh bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của bệnh phong, nhưng rất nhẹ, Hàn Mặc Tử cho rằng đó chỉ là bệnh ngứa đơn thuần nên không mấy quan tâm. Đến năm 1936, Hàn Mặc Tử quay lại Sài Gòn lần 2, lúc này ông được nhận làm chủ bút cho tờ Phụ nữ tân văn, Hàn Mặc Tử mới nghĩ đến việc phải trị dứt hẳn căn bệnh “phong ngứa” mà vẫn chưa phát hiện bản thân mắc bệnh nan y, gọi là “phong cùi”. Thời điểm này cũng là lúc nhà thơ cho ra đời tập thơ “Gái quê” nổi tiếng.

Thời ấy phong cùi được xem là một căn bệnh truyền nhiễm, hầu như ai cũng có thành kiến với người mắc căn bệnh này, bệnh nhân bị hắt hủi, xa lánh và thậm chí là ngược đãi. Tin nhà thơ Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong cùi nhanh chóng lan rộng, gia đình lựa chọn đưa anh đi cách ly thay vì đi chữa trị ở Bệnh viện phong Quy Hòa.

Có một câu chuyện được kể lại liên quan đến căn bệnh của Hàn Mặc Tử: Một hôm Hàn Mặc Tử cùng Mộng Cầm đi dạo ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết) thì có đi ngang một nghĩa địa, ở đó có một ngôi mộ mới an táng thì mưa xuống. Hàn Mặc Tử nhìn thấy từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ, sau anh về nhà nghỉ và rồi sớm phát hiện ra mình mắc bệnh phong cùi.

Năm 1938 -1939, bệnh của Hàn Mặc Tử bộc phát dữ dội, cơ thể vô cùng đau đớn nhưng không ai nghe nhà thơ khóc than hay rên rỉ một lời, ông dồn nén tất cả nỗi đau và chỉ gào thét trong thơ. Nguyễn Bá Tín, em trai ruột của Hàn Mặc Tử khi nhớ về những năm tháng cuối đời của anh trai từng nói: “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.”

Sau cùng, Hàn Mặc Tử bỏ lại tất cả, quyết vào Bệnh viện phong Quy Hoà để chữa trị, sau khi thăm khám bác sĩ nhận định nội tạng nhà thơ hư hỏng bởi uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm. Vào 5 giờ 45 phút ngày 11/11/1940 Hàn Mặc Tử từ trần tại bệnh viện vì chứng kiết lỵ, lúc ấy nhà thơ chỉ mới 28 tuổi.

Chất thơ trong thơ của Hàn Mặc Tử

Từ những ngày đầu tiên chập chững bước vào con đường sáng tác, thơ của Hàn Mặc Tử đã mang màu sắc táo bạo, phá cách, gây tiếng vang lớn trong giới yêu thích thi ca. Với lối thơ nửa kín, nửa mở, trần tục, Hàn Mặc Tử khiến đọc giả phải suy nghĩ và nghiền ngẫm nhiều. Ông dùng con chữ một cách trừu tượng làm nên chiếc đòn bẩy để mà gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc rất riêng tư.

“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối,
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”…
(Thức khuya)

“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi”
(Bẽn lẽn)

Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử sống lạnh lẽo, cô đơn cùng sự đau đớn cùng cực bởi bệnh “phong cùi”. Đôi bàn tay nhà thơ co quắp, khô cằn nhưng vẫn không ngừng miệt mài sáng tác, không ngừng cống hiến cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Có lẽ chính bởi những đau khổ trong cuộc đời, niềm khát khao cuộc sống, mà những tác phẩm của ông càng thêm sâu sắc, lạ lẫm, độc đáo nhưng cũng đớn đau và có phần điên loạn.

“Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?”
(Những giọt lệ)

Cái chết của nhà thơ Hàn Mặc Tử chính là sự mất mát lớn của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ, thế nhưng bằng ấy khoảng thời gian ngắn ngủi sống trên đời nhà thơ tài hoa cũng đã để lại rất nhiều những tác phẩm thơ ca bất hủ!

sưu tầm

Bình luận Facebook