Hoài niệm Tết trong thơ xưa

Trong thơ Việt từ trước tới nay, Tết đi vào thơ của mọi thời và của nhiều người, song những cái Tết trong thơ làm tôi nhớ nhất thuộc về thời Thơ Mới lãng mạn 1932 – 1945…

Đời người, trong tất cả những năm tháng đã qua cũng như những năm tháng của tương lai, Tết bao giờ cũng là một khoảng thời gian thiêng liêng, lắng đọng, mang đến cho mỗi chúng ta thật nhiều xúc cảm. Người thì đến với Tết bằng đoàn tụ sum vầy, người thì đến với Tết bằng lạc quan hy vọng, người thì đến với Tết bởi những khắc khoải nhớ thương…

Mở lại hợp tuyển “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân, thi phẩm đầu tiên gắn với Tết mang lại cho ta bao cảm xúc bùi ngùi, buồn thương của một lớp người đã tàn phai, đã dần xa những con người của thời hiện tại. Đó là bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. Hình tượng trung tâm của tác phẩm là ông đồ cho chữ, đại diện cho một lớp người với thú vui tao nhã thanh cao.

Tác phẩm gián tiếp phản ánh với chúng ta một biến cố quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội của đất nước, đó là sự “thất sủng” của chữ Hán bởi chế độ khoa cử bằng chữ Hán đã lần lượt bị xóa sổ ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Địa vị của chữ Hán thay đổi khiến cho những người tìm đến ông đồ xin chữ, xin câu đối càng ngày càng ít hơn xưa, để rồi: “Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay/ Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay/ Năm nay đào lại nở/ Không thấy ông đồ xưa/ Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ”.

Thực ra, toàn bài thơ không có một chữ Tết nào, nhưng cái không khí Tết mà thi phẩm gợi ra là một điều có thật. Không khí Tết ấy đến từ hoa đào nở, từ cảnh ông đồ ngồi cho chữ. Và rồi cuối cùng, cũng là một cái Tết nhưng thay vào đông vui nhộn nhịp lại là sự cô đơn lẻ loi của một người ngồi bên lề, đã bị lãng quên…

Cũng viết về Tết nhưng với Đoàn Văn Cừ lại là một cách tiếp cận khác. Bài thơ “Chợ Tết” nổi tiếng của ông gồm 44 câu chính là một trong 4 tác phẩm được Hoài Thanh – Hoài Chân tuyển chọn để đưa vào “Thi nhân Việt Nam”. Thi sĩ đã tái hiện sống động quang cảnh của chợ Tết ở một vùng nông thôn Bắc Bộ với đủ các sắc màu, nhân vật, hoạt động vô cùng phong phú, đa dạng. Trong đoạn đầu, ta bắt gặp màu trắng của mây, màu đỏ của đỉnh núi, màu xanh của mép đồi, màu biếc của cỏ, màu đỏ của áo thằng cu, màu trắng của giọt sương, màu xanh của núi.

Ở đoạn tiếp theo, ta bắt gặp một loạt các nhân vật với các hoạt động khác nhau như anh hàng tranh thì gánh đôi bồ, thầy khóa thì viết chữ, cụ đồ vuốt râu đọc câu đối, bà cụ bán hàng, cụ lý bị sấn kéo, lũ trẻ con ngắm tranh, các cô gái cười rũ rượi, một anh chàng bán pháo, một người mua gà đang kiểm tra gà. Thế nhưng ở đoạn cuối cùng với 6 câu khép lại tác phẩm, những huyên náo sống động được thay thế bằng sự vắng lặng u buồn bởi chợ Tết đã tan.

Nếu như ánh mặt trời xuất hiện trong đoạn đầu của bài thơ được diễn tả gắn với những cảm xúc vui tươi: “Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa/ Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh/ Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh”; thì ánh mặt trời trong đoạn kết thúc đượm buồn, được đặt bên cạnh hình ảnh lá rụng: “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê/ Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”. Dường như thi sĩ cố tình tránh nỗi buồn thời đại mà rồi cuối cùng vẫn không thể chối bỏ, không thể lãng quên được. Nỗi buồn vẫn xuất hiện như một day dứt khôn nguôi trong lòng người.

Nếu như Vũ Đình Liên và Đoàn Văn Cừ, mỗi người chỉ có một bài thơ nổi danh về Tết, thì một thi sĩ lãng mạn cùng thời khác là Nguyễn Bính đã viết rất nhiều câu thơ Tết, bài thơ Tết.

Đầu tiên, Tết xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính với tính chất tả thực: “Có cô thợ nhuộm về ăn Tết/ Sương gió đường xa rám má hồng” (Không đề); “Em chưa lấy chồng/ Má hồng còn thắm/ Tết Tết xuân xuân/ Đời vui vẻ lắm” (Xuân).

Ngày Tết trong thơ Nguyễn Bính luôn gắn với một cảm xúc, một ước ao được sum vầy đoàn tụ. Thế nên nếu Tết mà phải xa nhau, phải ly biệt thì đó chắc chắn sẽ trở thành nỗi buồn day dứt khôn nguôi trong lòng người: “Năm ngoái Tết rồi/ Năm nay lại Tết/ Ai đi biền biệt/ Hai Tết rồi đây/ Buồng hương lẳng lặng/ Then chẳng thiết cài/ Còn đợi chờ ai/ Biết bao Tết nữa” (Tết).


Những ngày Tết vui nhất trong thơ Nguyễn Bính là những ngày Tết vọng về trong hồi ức, lúc thiếu thời. Có những cái Tết gắn với hình ảnh người mẹ tần tảo, hiền từ: “Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều/ Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều/ Sân gạch tường hoa người quét lại/ Vẽ cung trừ quỷ trồng cây nêu (…) Xong ba ngày Tết mẹ tôi lại/ Đầu tắt mặt tối nuôi chồng con/ Rồi một đôi khi người giậm gạo/ Chuyện trò kể lại tuổi chân son” (Tết của mẹ tôi).

Có những cái Tết gắn với hình ảnh người bạn gái thuở hoa niên: “Trời đen như mực, tối ba mươi/ Diễm lén sang nhà để gặp tôi/ Hai chúng tôi ngồi trên đệm rạ/ Lắng nghe nồi bánh rộn ràng sôi” (Thi vị).

Nhưng những cái Tết xuất hiện nhiều nhất trong thơ Nguyễn Bính là những cái Tết xa nhà, phải đón xuân nơi xứ người. Danh từ Tết vì thế thường có một loạt yếu tố đi sau để nhấn mạnh cái sự xa quê ấy như: “Tết ngoài thiên hạ”, “Tết quê người”, “Tết người ta”: “Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió/ Xuân này em chị vẫn tha hương/ Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ/ Son sắt say hoài rượu viễn phương (…) Đêm ba mươi Tết quê người cũng/ Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương” (Xuân vẫn tha hương), “Quán trọ xuân này hoa lại nở/ Lại ngồi xem Tết, Tết người ta” (Quán trọ).

Và mọi cái Tết ở xứ người ấy đều là những cái Tết vô duyên, những cái Tết không mang đầy đủ ý nghĩa thực sự. Nỗi khát khao sum họp trong những ngày Tết vì thế mà càng cháy bỏng, nhưng bởi không thể trở về nên con người đành chấp nhận mà ôm lấy nỗi buồn tủi nhiều khi đến bẽ bàng: “Chiều ba mươi hết năm rồi/ Nhà tôi riêng một mình tôi vắng nhà/ Tôi còn lận đận phương xa/ Để ăn cái Tết thật là vô duyên” (Xuân về nhớ cố hương); “Rượu chẳng say cho đèn cũng lụi/ Ngày mai xuân nở khắp giang san/ Ngày mai ăn Tết bằng chi nhỉ/Ăn Tết bằng hai cánh cửa quan” (Tết biên thùy).

Bài thơ xuất hiện nhiều từ Tết nhất và khắc khoải da diết nhất là thi phẩm “Xuân tha hương”, gồm 100 câu được bắt chung một vần. Cái điệp khúc “Tết này chưa chắc em về được/ Em gửi về đây một tấm lòng” trở đi trở lại đến 7 lần trong toàn bộ bài thơ. Rải rác trong bài còn có 6 từ Tết khác, nâng tổng tần số xuất hiện của Tết trong thi phẩm lên tới 13 lần. Cái cảm giác bơ vơ, lạc lõng, cô đơn, vô định dễ khiến người ta phải trào nước mắt: “Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết/ Một mình em vẫn cứ tay không/ Vườn nhà Tết đến hoa còn nở/ Chị gửi cho em một cánh hồng/ Tha hương chẳng gặp người tri kỷ/ Một cánh hoa tươi đỡ lạnh lòng (…)/ Chị ơi Tết đến em không được/ Trông thấy quê hương thật não nùng (…)/ Tết này ồ thế mà vui chán/ Những một mình em uống rượu hồng (…)/ Chị ơi Tết đến em mua rượu/ Em uống cho say đến não nùng/ Uống say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông…”.

Tết không chỉ như một ám ảnh mà còn trở thành định mệnh của thơ và đời Nguyễn Bính. Chẳng thế mà trong những câu cuối của bài “Nhạc xuân”, thi sĩ dường như đã buông ra một “lời sấm” cho sự ra đi mãi mãi của mình: “Năm mới tháng giêng mùng một Tết/ Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân/ Huyền Trân ơi!/ Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi/ Giờ đây chín vạn bông trời nở/ Riêng có tình ta khép lại thôi”.

Sau 27 năm kể từ khi công bố bài “Nhạc xuân” (1939), Nguyễn Bính đã vĩnh viễn rời cõi tạm vào đúng ngày 29 tháng Chạp (năm đó không có ngày 30), ngay trước thềm mùng một Tết năm Bính Ngọ (1966), để lại bao nuối tiếc xót xa trong lòng những người ở lại.

Qua ba thi sĩ của phong trào Thơ Mới: Vũ Đình Liên, Đoàn Văn Cừ, Nguyễn Bính, chúng tôi muốn làm một cuộc hành hương, hoài niệm về Tết trong thơ xưa. Đó là những mùa xuân, những cái Tết mà nỗi u buồn sầu thương vẫn còn giăng mắc, bàng bạc trong hầu hết các thi phẩm bởi đất nước chưa được độc lập tự do, vẫn còn nằm trong sự cai trị của thực dân.

Thế nhưng cái tình của con người với Tết, với quê hương, với gia đình luôn là một điều chân thành, gây niềm xúc động mạnh mẽ cho người đọc, không chỉ của thời bấy giờ mà còn tiếp tục chinh phục mỗi chúng ta hôm nay.

sưu tầm

Bình luận Facebook